Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 16-06-2025 4:00am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CN. Trương Trần Minh Anh – IVF Tâm Anh

Tổng quan
Việc chuyển phôi từ noãn hiến đã gia tăng tại Hoa Kỳ kể từ ca mang thai đầu tiên bằng noãn hiến vào năm 1983 với 7,4% tổng số chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại Hoa Kỳ sử dụng noãn hoặc phôi hiến vào năm 2020. Noãn hiến cho phép bệnh nhân có thể mang thai thành công ngay cả khi gặp các vấn đề về chất lượng hoặc số lượng noãn của bản thân như do bệnh lý di truyền, suy giảm dự trữ buồng trứng hoặc suy buồng trứng nguyên phát. Đặc biệt sau khi kỹ thuật thủy tinh hóa được phát triển và ứng dụng phổ biến, trữ đông noãn hiến có thể mang lại nhiều lợi ích cho người sử dụng noãn hiến. Tuy nhiên, các nghiên cứu về hiệu quả của noãn đông lạnh so với noãn tươi vẫn còn hạn chế và chưa rõ ràng, đặc biệt là trong chu kỳ chuyển phôi đông lạnh. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu toàn quốc để đánh giá xu hướng, đặc điểm và kết quả thai kỳ theo trạng thái của noãn và phôi, nhằm cung cấp thêm bằng chứng trong bối cảnh kỹ thuật thủy tinh hóa ngày càng được ứng dụng rộng rãi tại Hoa Kỳ.

Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên các bệnh nhận thực hiện chu kỳ chuyển phôi từ noãn hiến tại Hoa Kỳ và được báo cáo lên Hệ thống giám sát Công nghệ hỗ trợ sinh sản quốc gia (National Assisted Reproductive Technology Surveillance System - NASS) từ 2013 đến 2020. Số lượng và tỷ lệ tổng số chu kỳ chuyển phôi hàng năm từ noãn hiến được phân tầng theo trạng thái của noãn và phôi, cùng với các chu kỳ chuyển một phôi duy nhất dẫn đến sinh sống đủ tháng (≥37 tuần thai), cân nặng bình thường (≥2500g) trong giai đoạn 2013–2020. Tỷ lệ sinh sống và tỷ lệ trẻ sinh đơn đủ tháng, cân nặng bình thường trong giai đoạn 2018–2020 cũng được báo cáo. Nguy cơ tương đối (RR) được sử dụng để đánh giá mối liên quan giữa trạng thái của noãn hiến và kết quả sinh sống cũng như trẻ sinh đơn đủ tháng, cân nặng bình thường từ các chu kỳ chuyển phôi sử dụng noãn hiến.

Kết quả
Từ năm 2013 đến 2020, có 135.085 chu kỳ chuyển phôi từ noãn hiến, trong đó tỷ lệ sử dụng phôi đông lạnh tăng (từ 42,3% lên 76,6%), phôi tươi từ noãn đông lạnh tăng (từ 19,9% lên 68,3%) và chuyển đơn phôi (Single embryo transfer - SET) tăng (từ 36,4% lên 85,5%). Trong giai đoạn 2018–2020, có 48.679 chu kỳ chuyển phôi từ noãn hiến. Tỷ lệ sinh sống thấp hơn khi sử dụng noãn đông lạnh so với noãn tươi, cả ở các chu kỳ chuyển phôi tươi (46,2% so với 55,9%; RR hiệu chỉnh (aRR): 0,83 [KTC 95%: 0,79–0,87]) và chu kỳ chuyển phôi đông lạnh (41,3% so với 45,8%; aRR: 0,94 [KTC 95%: 0,91–0,98]). Trong các ca sinh đơn, tỷ lệ sinh trẻ đủ tháng, cân nặng bình thường là tương đương giữa các chu kỳ sử dụng noãn đông lạnh và noãn tươi trong cả chu kỳ chuyển phôi tươi (77,3% so với 77,2%; aRR: 1,01 [KTC 95%: 0,98–1,03]) và chuyển phôi đông lạnh (75,6% so với 75,1%; aRR: 1,02 [KTC 95%: 0,99–1,04]).

Bàn luận
Trong nghiên cứu cấp quốc gia này về các chu kỳ chuyển phôi sử dụng noãn hiến, việc sử dụng chuyển phôi đông lạnh, chuyển phôi tươi từ noãn đông lạnh và SET đều gia tăng. Mặc dù noãn đông lạnh có liên quan đến tỷ lệ sinh sống thấp hơn một chút so với noãn tươi nhưng tỷ lệ trẻ sinh đơn đủ tháng, cân nặng bình thường là tương đương giữa hai nhóm. Khi việc đông lạnh noãn không còn được xem là thử nghiệm và đã được triển khai tại 99% các phòng khám, bệnh nhân ngày càng có xu hướng lựa chọn noãn hiến đông lạnh. Việc gia tăng SET phản ánh sự tuân thủ tốt hơn các khuyến nghị của Hội Y học Sinh sản Hoa Kỳ (ASRM) và có thể liên quan đến số lượng phôi hạn chế do dùng noãn đông lạnh. Các yếu tố khác như chất lượng phôi cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả. Trong các chu kỳ SET tươi từ 2013 đến 2020, noãn đông lạnh tạo ra tỷ lệ trẻ đơn đủ tháng và cân nặng bình thường thấp hơn so với noãn tươi. Trong giai đoạn 2018 đến 2020, tỷ lệ sinh đôi từ noãn hiến dao động từ 5,2%–12,9%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ sinh đôi 37% được ghi nhận vào năm 2010. Kết quả tỷ lệ có thai và sinh sống thấp hơn nhẹ khi dùng noãn đông lạnh có thể là do các yếu tố khác như chất lượng phôi hay số lượng noãn sẵn có. Noãn đông lạnh thường được sử dụng theo lô nhỏ (~6 noãn), dẫn đến ít phôi hơn và có thể làm giảm chất lượng phôi từ đó có thể dẫn đến tỷ lệ sảy thai cao hơn ở nhóm chuyển phôi tươi từ noãn đông lạnh. Nghiên cứu này có một số hạn chế như: thiếu dữ liệu về tình trạng noãn đối với phôi đông lạnh trước năm 2018, dữ liệu bị thiếu về độ tuổi người hiến, chất lượng phôi và số lượng noãn, cùng một số biến số không được kiểm soát. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng NASS và phương pháp bù trừ dữ liệu bị thiếu, nghiên cứu vẫn đảm bảo tính đại diện và độ tin cậy.
Đây là nghiên cứu đầu tiên phân tích kết quả chuyển phôi đông lạnh theo tình trạng noãn hiến. Việc tập trung vào các kết quả lâm sàng có ý nghĩa như tỷ lệ trẻ sinh sống và trẻ đơn đủ tháng, cân nặng bình thường mang lại thông tin thiết thực hỗ trợ bệnh nhân và bác sĩ ra quyết định trong điều trị vô sinh bằng noãn hiến.

Nguồn: Braun, C. B., DeSantis, C. E., Lee, J. C., Kissin, D. M., & Kawwass, J. F. (2024). Trends and outcomes of fresh and frozen donor oocyte cycles in the United States. Fertility and sterility, 122(5), 844-855.

 


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...

Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK